Đại nguyên soái Nhạc Phi 1103 - 1142
https://generalhieu.info/daituongnguyenvanhieu/dai-nguyen-soai-nhac-phi_1103-1142.html
Đại nguyên soái Nhạc Phi 1103 - 1142 (Wikipedia)
(24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142)[1] là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông đã có 126 trận chiến với quân Kim và toàn thắng. Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, chức tước của ông trước khi bị sát hại là Đại nguyên soái.
Người Trung Hoa đời sau luôn lấy Nhạc Phi làm tấm gương, xem ông là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần. Cùng với Triệu Đỉnh, Lý Cương, Hàn Thế Trung, Văn Thiên Tường, ông là 1 trong 5 vị quan trong thời Nam Tống được thờ tại Đế vương miếu (历代帝王庙) được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các thời đại.
Tranh vẽ đương thời về Nhạc Phi
Tiểu sử
Nhạc Phi, tự Bằng Cử (tiếng Trung: 鹏举; bính âm: Péngjǔ; Wade–Giles: P'eng Chü; Yale Quảng Đông: Paang4 Geui2), thuỵ hiệu Vũ Mục (tiếng Trung: 武穆; bính âm: Wǔmù; Wade–Giles: Wumu; Yale Quảng Đông: Mou5 Muk6), Trung Vũ (tiếng Trung: 忠武; bính âm: Zhōngwǔ; Wade–Giles: Jungwu; Yale Quảng Đông: Jung1 Mou5); sinh ngày 15 tháng 2 năm Qúy Mùi, tức 24 tháng 3 năm 1103 thời Tống Huy Tông, bị hại ngày 25 tháng 12 năm Nhâm Tuất tức 27 tháng 1 năm 1142 thời Tống Cao Tông, hưởng dương 39 tuổi. Nhạc Phi sinh ra ở huyện Thang Âm, Tương Châu, nay là huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam. Tổ tiên họ Nhạc làm nghề nông, cha Nhạc Phi là Nhạc Hòa tính tình đôn hậu, sống tằn tiện để hay giúp đỡ người nghèo khó. Nhạc Phi lúc nhỏ sống điềm đạm ít nói, siêng năng làm lụng, cố gắng học hành, yêu thích sách binh pháp của Tôn Vũ và Ngô Khởi. Ông may mắn được học võ với thiện xạ Chu Đồng, tay thương cừ khôi Tần Quảng, được tiếng là vô địch trong huyện.
Cuối thời Bắc Tống, nhà Liêu thường tổ chức xâm nhập phương nam, người dân Tống phải chịu cảnh cực khổ do chiến tranh. Từ nhỏ Nhạc Phi đã có lòng yêu nước thương dân, căm thù quân Hồ, luôn nghĩ đến việc báo quốc nên lập chí tòng quân. Năm 1122, Nhạc Phi lúc đó 19 tuổi xin đầu quân, được bổ nhiệm làm tiểu đội trưởng, sau đó tham gia vào liên quân Tống - Kim diệt Liêu, tham gia chiến dịch Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Năm 1125, triều Liêu diệt vong, quân Kim tràn vào quan ải. Quân Tống không thể giữ Yên Kinh, để cho người Nữ Chân chiếm đoạt, lại bị khinh thường. Tuy có một số châu huyện của Yên Vân được Kim chuyển giao, nhưng sau khi Kim Thái Tổ băng hà, Kim Thái Tông lại suy nghĩ tới việc Nam chinh Đại Tống.
Không bao lâu, do phải chịu tang cha, nên thoái ngũ về quê để giữ đạo hiếu. Bắc Tống lúc bấy giờ đứng trước cục diện nguy khốn, người Kim mới nổi lên song còn tỏ ra hung ác hơn cả người Liêu, thừa thế diệt Liêu, rầm rộ xâm lăng nước Tống. Quân Kim học hỏi cả Liêu và Tống rất nhanh, cộng thêm sự biến Bình Châu của Trương Giác khiến các hàng tướng của Liêu hàng Kim, nên xâm chiếm Trung Nguyên rất nhanh. Lãnh thổ Bắc Tống bị Kim chiếm lĩnh trong vòng chốc lát, Tống Huy Tông phải nhường ngôi cho Tống Khâm Tông, nhanh chân chạy về Nam. Hà Bắc cùng Hà Nam bị quân Kim tàn phá nặng nề. Nhạc Phi tận mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của người dân, hết sức giận dữ, vào năm Tĩnh Khang đầu tiên (1126) lại ra tòng quân. Ngày lên đường, mẹ ông là Diệu thị đã xăm lên ông bốn chữ lớn Tận trung báo quốc (尽忠報國, hết lòng trung để trả ơn quốc gia). Đây là những điều ghi tâm khắc cốt, trọn đời phấn đấu của ông. Tuy nhiên, không lâu sau, khi đơn vị ông còn chưa ra tới trận tuyến thì Biện Kinh đã mất. Bắc Tống kể như diệt vong. Hai vua Tống là Huy Tông và Khâm Tông bị triều Kim bắt về thành Ngũ Quốc tại Mạc bắc. Sự biến Tĩnh Khang đã trở thành một vết xước trong cuộc đời của Nhạc Phi, nung nấu tinh thần diệt Kim của ông.
Sự nghiệp cầm quân
Khi Bắc Tống diệt vong, Cao Tông lên ngôi tháo chạy về phía nam, Nhạc Phi là một quan cấp dưới với lòng ngay thẳng nghiêm túc, đã vượt cấp dâng sớ cho Cao Tông trách mắng chủ trương của phái chủ hoà, khuyên vua Cao Tông thân chinh thống lĩnh sáu quân vượt lên phía Bắc, khôi phục lại Trung Nguyên. Nhưng Cao Tông bạc nhược lại không nghe những ý kiến này, mà ngược lại Nhạc Phi còn bị những quan lại của phái chủ hoà khép cho tội danh "quan nhỏ vượt chức" mà đòi bãi chức quan của Nhạc Phi.
Nhưng quyết tâm của Nhạc Phi chống Kim không bao giờ thay đổi, ông đầu quân vào Chiêu thảo sứ Hà Bắc là Trương Sở, được Sở đối đãi vào hàng quốc sĩ, lệnh cho Nhạc Phi theo Vương Ngạn vượt sông chiến đấu chống quân Kim. Quân Tống đến huyện Tân Hương (thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay), thấy quân Kim đông đảo, Vương Ngạn không dám ra đánh, Nhạc Phi một mình dẫn bộ hạ huyết chiến cùng quân Kim, tự mình xông vào trận địa địch đoạt lấy đại kỳ chỉ huy của địch, quân sĩ thấy thế hăng hái xông lên đánh tan quân Kim thu phục lại Tân Hương. Ngày hôm sau lại đánh trận lớn, Nhạc Phi thân thể đầy thương tích, quân sĩ đều dồn hết sức mà đánh, quân Kim triệt thoái, tên tuổi Nhạc Phi lúc này vang danh khắp Hà Bắc.
Năm 1130, tướng Kim là Ngột Truật cất đại quân vượt sông Trường Giang đánh Tống, thế như chẻ tre, quân Tống tháo chạy hoảng hốt. Nhạc Phi tiến quân đến Thường Châu (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay), đánh với Ngột Truật bốn trận, quân Kim thua trận. Nhạc Phi tiếp tục truy kích, giành thêm chiến thắng ở trấn Giang Đông, Thanh Thủy. Ngột Truật nhanh chân cho quân chạy về Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh), Nhạc Phi cho quân phục kích tại núi Ngưu Đầu đánh bại Ngột Truật, Ngột Truật lại chạy về Hoài Tây, Nhạc Phi thu hồi được Kim Lăng, bảo toàn được nửa mảnh giang sơn Giang Nam của Nam Tống. Lúc này Nhạc Phi đã có trong tay 4 vạn quân, trở thành danh tướng kháng Kim uy danh bốn phương, khi tuổi mới tròn 27.
Sau khi thu phục được Kim Lăng, Nhạc Phi chuyển quân sang đánh các vùng như Giang Tây, Hồ Nam, Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) và Phúc Kiến, bình định diệt trừ các nhóm thảo khấu cũng như các cuộc khởi nghĩa nông dân, củng cố chính quyền Nam Tống. Để khen thưởng cho chiến công của Nhạc Phi, Tống Cao Tông đã cho thêu bốn chữ lớn trên nền cờ Nhạc Phi tận trung để tưởng thưởng, lại thăng Nhạc Phi làm Tri sứ Giang Tây. Nhưng Nhạc Phi vẫn chưa hài lòng, ông không quên khôi phục Trung Nguyên, đã nhiều lần dâng sớ yêu cầu Bắc phạt, nhưng Tống Cao Tông không chấp nhận.
Năm 1134, người Kim cùng với chính quyền Lưu Tề ở phương Bắc do người Kim nâng đỡ, liên quân tiến đánh Nam Tống, đánh chiếm 6 quận Tương Dương ở trung lưu Trường Giang, trực tiếp uy hiếp sự sinh tồn của nhà Nam Tống. Tống Cao Tông lại phải lệnh cho Nhạc Phi xuất quân, nhưng lại hạn chế ràng buộc ông chỉ được phép thu phục 6 quận Tương Dương, không cho phép đánh tiến lên phía Bắc. Tuy bị triều đình chế ngự nhưng đây rốt cuộc lại là một cơ hội để tận trung báo quốc của Nhạc Phi. Nhạc Phi Bắc tiến, mạnh mẽ tấn công đến Đặng Châu (nay thuộc Nam Dương tỉnh Hà Nam), Tương Châu (nay thuộc huyện Tương Dương tỉnh Hồ Bắc), Dĩnh Châu (nay là huyện Chung Tường tỉnh Hồ Bắc), Tùy Châu (nay là huyện Tùy tỉnh Hồ Bắc), Đường Châu (nay là huyện Đường tỉnh Hà Nam), phủ Tín Dương (nay là huyện Tín Dương tỉnh Hà Nam). Những chiến công này đã cổ vũ mạnh mẽ quân dân Nam Tống chống Kim, thể hiện quyết tâm thu phục Trung Nguyên của Nhạc Phi. Nhưng do ảnh hưởng của Tần Cối đứng đầu của phái đầu hàng, Cao Tông đã cho triệu hồi Nhạc Phi về kinh, thăng chức cho ông làm Thanh Viễn quân Tiết độ sứ.
Năm 1136, quân Tống dưới sự chủ trì của đại tướng Trương Tuấn (Trương Đức Viễn), Nhạc Phi, Hàn Thế Trung... cùng các lộ cất quân Bắc phạt. Nhạc Phi xuất quân ở trấn Tương Dương, giương đông kích tây, lệnh cho thuộc tướng là Ngưu Cao giả vờ tiến quân, còn mình thì dẫn quân chủ lực tấn công phía Tây Bắc, năm trận đánh thắng cả năm, thu phục rất nhanh Y Dương, Lạc Dương, Thương Châu, Quắc Châu, tiến vào một dãy bờ phía nam Hoàng Hà, thu phục cả một vùng đất rộng lớn về cho nhà Nam Tống. Nhân dân khắp nơi đón chào Nhạc Phi và quân đội, hàng trăm đám nghĩa quân lớn nhỏ xin đến hưởng ứng. Trong tình thế hết sức thuận lợi này, phái chủ hoà và phái đầu hàng của Nam Tống mà đứng đầu là Cao Tông và Tần Cối lại tỏ ra sợ hãi. Bọn họ liền cho triệu hồi các lộ quân Bắc phạt, một lần nữa lại khiến cho ý chí của Nhạc Phi khó thực hiện.
Năm 1140, quân Kim lại ồ ạt xâm chiếm xuống phía Nam, công phá vây hãm Củng, Bột, tướng Lưu Kỳ phải cấp báo, Nhạc Phi lại phụng mệnh tiếp viện. Nhạc Phi lệnh cho Lương Hưng thống lĩnh quân kỵ lén vượt Hoàng Hà quấy phá hậu phương quân Kim, còn mình thì dẫn quân chủ lực trực chỉ Trung Nguyên, liên tiếp thu phục Yển Thành (nay thuộc tỉnh Hà Nam), Trịnh Châu, Lạc Dương... Nhạc Phi đại phá đội kỵ binh tinh nhuệ của Ngột Truật tại Yển Thành, lại đánh bại quân chủ lực của Kim ở trấn Chu Tiên (nằm ở phía tây nam huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Ngột Truật cho quân rút về Khai Phong không dám nghênh chiến, quân Tống tràn đầy khí thế. Nhưng một lần nữa triều đình lại đem thắng lợi của Nhạc Phi làm vốn xin hoà với người Kim, trong một ngày liên tiếp cho phát đi 12 lệnh kim bài triệu hồi Nhạc Phi. Trước đó, Tần Cối đã bí mật lệnh cho các tướng lĩnh rút lui, để lại một mình Nhạc Phi cùng quân của ông thâm nhập trận địa.
Án mạc tu hữu
Nhạc Phi bị ép vào thế khó đã ngửa mặt than: Công lao 10 năm, đã bị phá hỏng trong một buổi!. Lần ra quân này, không những khiến cho giấc mộng tận trung báo quốc, thu thập lại giang sơn cũ của Nhạc Phi trở nên hão huyền mà lại còn gặp phải vận rủi. Người Kim vốn ôm hận Nhạc Phi sâu sắc, họ liên kết với Tần Cối, bắt triều đình nhà Tống phải giết hại Nhạc Phi để làm điều kiện hoà nghị. Tống Cao Tông đã điều Nhạc Phi đi làm Khu mật phó sứ để tước bỏ hết binh quyền của ông. Ngày 25 tháng 12 âm lịch, năm 1141, Nhạc Phi và con trai của mình, Nhạc Vân, bị Tần Cối hạ độc giết chết tại đình Phong Ba thuộc Đại lý tự Lâm An. Giai thoại kể rằng, Nguyên soái Hàn Thế Trung đã chất vấn Tần Cối: xử tội Nhạc Phi, thế bằng chứng đâu? Tần Cối trả lời: Không có, nhưng cũng không cần có. 3 chữ "không cần có" (莫須有; mạc tu hữu) từ đó gắn liền với tên Nhạc Phi và đi vào tiếng Trung để chỉ những lời buộc tội ngụy tạo.
Nhạc gia quyền
Nhạc Phi tài kiêm văn võ, để lại "Vũ Mục di văn" hay "Nhạc Trung Vũ Vương văn tập" với những áng thơ, từ. Ông được thờ là thủy tổ của "Nhạc gia quyền", nhưng việc ông có viết một bộ binh thư nào không là dấu chấm hỏi.
Theo "Nhạc thị tông phổ" và những nghiên cứu của nhà văn, nhà "Nhạc Phi học" nổi tiếng Châu Cù Nhai thì "Vũ Mục di thư" mà Kim Dung nói đến chính là bộ quyền phổ "Nhạc gia quyền phổ" dạy môn võ công do Nhạc Phi truyền lại đã 800 năm qua được lưu giữ ở Hoàng Mai, Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.
Nhạc gia quyền là môn quyền pháp do Nhạc Phi sáng chế và truyền dạy trong đội xung kích chủ lực của quân Tống gọi là "Nhạc gia binh". Do xuất phát từ thực tế chiến trận đương thời, loại quyền này có đặc điểm là đòn đánh ngắn, hiểm, tính xung sát mạnh, hiệu quả chiến đấu rất cao. "Nhạc gia quyền phổ" dạy về quyền và binh khí. Ngoài 10 bài quyền chính và thương, đao, kiếm, côn, còn có các phần quyền luận, thuật vận khí, thuật điểm huyệt, giải huyệt, cứu thương, trật đả… nội dung rất phong phú, tính thực dụng cao.
Sau khi giết Nhạc Phi, Tần Cối ngầm ra lệnh truy sát con cháu nhà họ Nhạc, hai người con thứ tư, thứ năm là Nhạc Chấn và Nhạc Đình đổi thành họ Ngạc trốn về Nhiếp Gia Loan ở huyện Hoàng Mai, Hoàng Cương.
Đến năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162), Tống Hiếu Tông xóa oan án của Nhạc Phi, cho con cháu họ Nhạc đời đời được hưởng ân sủng triều đình. Vùng Hoàng Mai trở thành miền đất võ Nhạc gia quyền của Trung Quốc. Theo khảo sát trong "Hoàng Mai huyện chí" thì từ đời Tống đến năm Quang Tự đời Thanh, trong hơn 600 năm, tại Hoàng Mai có đến hơn 300 tiến sĩ võ, cử nhân võ. Các tiến sĩ võ nổi tiếng đời Minh, đời Thanh như Lý Cam Lai, Nhiêu Vũ Trung, Trương Tuấn Căn… đều thành danh từ Nhạc gia quyền. Hiện nay ở đây cũng có hơn 200 vị võ sư Nhạc gia quyền.
Hậu duệ của Nhạc Phi hiện đã truyền đến đời thứ 31, phân bố tại nhiều tỉnh thành. Truyền nhân Nhạc gia quyền nổi tiếng nhất hiện nay ở Hoàng Mai là võ sư Nhạc Tiến, hậu duệ đời thứ 27 của Nhạc Phi.[2]
Ngoài Nhạc Gia Quyền, Nhạc Phi còn có bài thương pháp, dựa vào Dương Gia Thương, được dùng để đào tạo binh sỹ Nam Tống. Tuy vậy, Nhạc Gia Thương không quá khác biệt với Dương Gia Thương.
Thơ ca
Võ công của Nhạc Phi không những tuyệt luân mà thư pháp, văn chương cũng đều xuất chúng một thời. Trong lần chống lại chiếu chỉ gọi ông đem quân trở về tại trấn Chu Tiên, Nhạc Phi đã đáp lại chiếu chỉ bằng những lời trung nghĩa, xuất phát từ tâm can. Ông còn làm bài từ Mãn giang hồng (滿江紅, Manjiang Hong hay Máu đầy sông), đầy hùng tâm nhưng cũng bi tráng.[cần dẫn nguồn]
Vinh danh
Lối vào phía trước mộ Nhạc Phi (Nhạc miếu) ở Hàng Châu (30°15′15,03″B 120°7′48,64″Đ).
Tượng Tần Cối và Vương Thị quỳ trước Nhạc Miếu ở Hàng Châu, hai tượng này dùng để người Trung Quốc đến thăm đến phỉ nhổ tội trạng của hai người
Tống Hiếu Tông (1163-1189) lên ngôi đã giải nỗi oan khuất cho Nhạc Phi, lấy lễ nghi cải táng lập miếu cho ông tại đất Ngạc, truy thụy hiệu là Trung Liệt. Năm 1179 ban thuỵ là Vũ Mục, đến đời Ninh Tông năm 1211 truy phong vương vị là Ngạc vương.
Ngày nay, ông được coi như là một trong các biểu tượng lớn của lòng yêu nước và là anh hùng dân tộc của Trung Quốc; bài từ Mãn giang hồng được người Tàu trên toàn thế giới biết tới và mộ của ông ở Tây Hà, Hàng Châu được nhiều người viếng thăm. Ở bên bờ hồ Tây ở Hàng Châu. có một toà Ngạc vương miếu. Những người được xem là Hán gian như Tần Cối, Vương thị, Mặc Kỳ Tiết được đúc thành tượng sắt quỳ trước Ngạc vương, bị người Tàu nguyền rủa. Còn Nhạc Phi lại được sự ngưỡng mộ và viếng thăm không ngớt của nhân dân.
Trước mộ Nhạc Phi có vế đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch thiết vô cô chú nịnh thần
(Núi xanh may mắn chôn lương tướng Sắt trắng uổng thay tượng nịnh thần)
Ngoài ra, trong chương trình giảng dạy của trường tiểu học tại Trung Quốc ngày nay học sinh được học ít nhất một bài về Nhạc Phi.
Đánh giá
Trong gần 20 năm chiến đấu chống quân Kim, Nhạc Phi đã trải qua 126 trận, chưa bại trận nào, không hổ danh là Thường thắng tướng quân. Lịch sử gọi Nhạc Phi là người văn võ mưu trí, có những ưu điểm của Hàn Tín, Bành Việt, Chu Bột, Quán Anh, tác phong của Gia Cát Khổng Minh (Tống sử, Nhạc Phi truyện). Mỗi lần sắp vào cuộc chiến, Nhạc Phi đều triệu các chỉ huy để bàn bạc, mưu định xong mới đánh, cho nên mỗi lần đánh nhau ông đều chiến thắng. Bất ngờ gặp địch, ông không hề nao núng, người Kim có câu Bạt núi dễ, đánh quân Nhạc khó.
Là một viên tướng can đảm và hiểu biết chiến thuật, Nhạc Phi đã giành được nhiều thắng lợi trong các trận chiến chống lại quân đội nhà Kim. Chiếm ưu thế do những khó khăn mà quân kỵ binh của đối phương gặp phải trong địa hình đồi núi của miền nam Trung Quốc, ông đã giành được những thắng lợi mặc dù quân của ông nói chung là ít hơn. Quân của ông đã thành công trong việc giành lại lãnh thổ phía nam sông Dương Tử và sông Hoài. Tuy nhiên, cố gắng của ông nhằm thu hồi các vùng đất phía bắc mà nhà Nam Tống đã đánh mất trước đó đã bị các quan lại phe chủ hòa chống lại, vì họ cho rằng chiến tranh kéo dài có thể sẽ quá rủi ro và tốn kém.
Giai thoại
Đời sau có giả thuyết là vua Tống Cao Tông mượn tay Tần Cối để diệt trừ Nhạc Phi. Có rất nhiều lý do:
1. Nhạc Phi khi trực chỉ phủ Hoàng Long, kinh đô nhà Kim, thì sẽ cứu 2 vua Huy Tông và Khâm Tông. Cao Tông sợ phải dâng lại ngai vàng cho hai người đó nên cách duy nhất để tránh việc đó là Nhạc Phi phải biến mất.
2. Nhạc Phi công cao cái chủ. Thắng nhiều trận nên uy danh át cả vua. Nhà Tống vốn trọng văn khinh võ, rất đề phòng võ quan, thông qua các sự kiện lịch sử đã từng làm uổng hoặc chết mất tướng tài. Nhạc Phi là một võ tướng rất thành công, do vậy mà quân thần nhà Tống coi là cái gai trong mắt.
3. Cao Tông mang nặng tư tưởng đương thời của nhà Tống, nghĩ rằng trả tiền cho Di Địch vẫn rẻ hơn là cung cấp cho quân đội nhà Tống. Vốn dĩ xuất thân thư sinh, các quân chủ nhà Tống rất bạc về lễ với giới cấp binh sỹ, và không thích đầu tư vào giới quân sự. Nhạc Phi dĩ nhiên là nạn nhân của tư tưởng này.
4. Cao Tông từ thời của Khâm Tông đã có ý đồ lợi dụng chiến tranh Tống Kim, "tranh sáng tranh tối", để mưu đồ đế vị. Cao Tông cơ bản coi Nhạc Phi là cái gai trong mắt, nhất là khẩu hiệu "Nghênh Hồi Nhị Đế" của Nhạc Phi, khiến y sợ mất hoàng vị. Do vậy, tuy Nhạc Phi công cao, vẫn phải chịu chết, là vì Cao Tông vậy.
Truyền thuyết cũng nói rằng những kẻ có ý định xử tội Nhạc Phi đã bị hồn ma của ông săn đuổi và phải tự sát.
Cũng có truyền thuyết nói Nhạc Phi là con chim Đại Bằng bên cạnh Phật tổ còn vợ của Tần Cối là con dơi Nữ Thổ Bức trong nhị thập bát tú. Vì tính tình nóng nảy nên đã giết chết con dơi khi đang nghe Phật tổ thuyết pháp (do con dơi đó đánh rắm), tạo nghiệt chướng nên bị đày xuống trần để trả món nợ cho vợ Tần Cối. Truyền thuyết này được ghi lại trong tiểu thuyết dã sử Thuyết Nhạc toàn truyện (bản dịch ở Việt Nam là Nhạc Phi diễn nghĩa).
Món bánh giò cháo quẩy của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu hành tội.
Nhạc Phi và sự kiện Tĩnh Khang cũng được tiểu thuyết gia kiếm hiệp Kim Dung nhắc đến trong một số tác phẩm của ông: Anh hùng xạ điêu, Tiếu ngạo giang hồ. Trong tiểu thuyết dựa Kim Dung Võ lâm ngũ bá, Chu Đồng cũng là thầy dạy võ của Đông tà Hoàng Dược Sư. Cũng theo truyện, Vũ Mục di thư là tác phẩm do ông viết về cách hành quân bố trận, sau này được Quách Tĩnh và Hoàng Dung tìm thấy.
Tham khảo
1. ^ Mair, Victor H.; Chen, Sanping; Wood, Frances (ngày 1 tháng 5 năm 2013). Chinese Lives: The People Who Made a Civilization. Thames & Hudson. tr. 120–121. ISBN 9780500771471.
2. ^ “Bí kíp võ công hay giấc mộng giang hồ của nhà văn Kim Dung”.
Images | website template by ARaynorDesign
Xhtml Valid | CSS Valid | Thư viện tướng Nguyễn Văn Hiếu | generalhieu.info @ 2022 - 2023 - 2024 ; Liên-lạc: generalhieu.info