Quân Sử Việt Nam Sư đoàn Nhảy Dù đồi 1062 Thường Đức 3
http://www.generalhieu.info/military_history/quansuvietnam_doi-1062-thuong-duc3.html
Là Chiến-Sĩ Việt-Nam Cộng-Hòa,
Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống còn của Tổ Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.
Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.
Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.
Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất lòng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.
Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù.
Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.
---------------
Mũ Đỏ Trương-Dưỡng, Đội Đèn (Trung Sĩ Nhất Nguyễn-Văn-Đèn) và Phạm Huấn đồng tác giả.
...
Đỉnh 1062 trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn…Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây đó, hằng trăm lính của Sư đoàn Thép Điện Biên, những bộ binh Bắc quân đã vang danh một thời cùng ào lên 1062 một lượt, những cặp chân đã vượt đèo Mụ Già qua Tchépone, Lao Bảo, những bàn chân rách nát chạy nhanh hơn, mau hơn; chúng giành giựt trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn! Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C ration. Cuối đường của giải phóng «Mỹ Ngụy» là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!!!
- Bom! Bom! Đốt cháy tụi nó cho hết. Trung tá Đồng nói như thét. – Yes sir! Anh sĩ quan liên lạc không quân vừa nghe được tiếng «Bom», và anh đã lập tức gọi 3 phi tuần khu trục đánh Napalm xuống sườn đồi.
Thiếu tá Vân nghe tiếng Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ dập lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập; hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá giống như đàn chó săn đang đói, cứ liều chết nhào tới tấn công, Đàng và anh em trong Đại đội đã cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sau khi pháo dứt, địch tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím, anh ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng như không khuất phục!!! Địch bị tiêu hao nhiều do đạn pháo TOT nên tức giận chĩa lưỡi lê đâm nát thân thể Đại úy Đàng! Thật là dã man hết sức, người chết rồi mà chúng cũng không bỏ qua!
Đại đội 34 của Đại úy Võ Thiên Thư, K25ĐL, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng. Trong khi địch hô: “Hàng sống chống chết”, nhưng Thư cứ hăng máu quạt AR16 và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn! Một TĐ3ND mà cầm cự cả trung đoàn của Sư đoàn 304, chúng cho các đơn vị thay phiên tấn công gần 1 ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của TĐ3ND như Đại úy Võ Thiên Thư, Tô Văn Nhị K26ĐL đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, Tiểu đoàn đành phải rút ra để phi pháo dập ngày đêm. Mặc dù chúng đã chuẩn bị các « lô cốt» bằng những khúc cây kiên cố, nhưng quân ta rút lui để cho địch bị dụ vào đỉnh 1062, rồi dùng «hỏa công» đốt cháy toàn khu ác liệt này bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Các loại CVT, cùng đạn ổ dọn bãi cho Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù vào thay (TĐ9ND vừa rút ra một ngày chưa kịp trang bị bổ sung đã được lệnh cấp tốc trở lại tiếp ứng TĐ3ND). Tiểu đoàn 9 cũng dùng chiến thuật dương Đông kích Tây, và nỗ lực chính kỳ nầy do Đại úy Tường, ĐĐT/ĐĐ93, và Trung úy Nhơn Đại Đội 92 tiến đánh từ trên cao xuống.
Bên sườn dốc đứng, Trung tá Nhỏ cùng Đại úy Trần Ngọc Chỉ cho bày binh bố trận rùm beng; khiến địch tưởng ta lên mặt nầy nên bắn giàn thung buộc giấy khiêu chiến: «Thách ngụy Dù lên đánh».
Tường biết địa thế 1062 kiên cố, hầm hố toàn bằng những thân cây rừng to lớn, phi pháo không làm gì được. Anh vội phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc địch chui ra khỏi hang rồi xin thả bom lửa Napalm đốt địch tan tành. Anh không dại xua quân vào miệng cọp, chỉ dùng đạn cay và bom Napalm; rồi bao vây chận nguồn nước và tiếp tế. Khiến địch chịu không nổi, chưa đánh đã tan. Ta và địch cứ giằng co chiếm qua chiếm lại mỗi bên 2, 3 lần và quân số 2 bên tiêu hao rất nhiều!
Đỉnh đồi 1062 lúc đầu toàn là rừng cây cổ thụ, sau những ngày hai bên thay nhau làm chủ, nay trở thành đồi trọc, sơ xác, tan hoang!
Lúc ban đầu, khi các chiến sĩ Dù vừa tới mục tiêu thì nhào lên dùng lựu đạn và súng cá nhân đánh giằng co cả tuần mà mới chỉ chiêùm được đỉnh cao 293. Lúc đó các đài kiểm thính nghe địch báo cáo thế nào không biết, mà Đài phát thanh Sài Gòn do Trung tá Lê Trung Hiền nói là quân Dù đã chiếm đỉnh 1062 và làm chủ tình hình Thường Đức. Vì thế Tướng Trưởng đôn đốc SĐND mau chiếm đỉnh 1062, kẻo báo chí ngoại quốc biết được thì mất thể diện Quốc Gia!
Tiểu đoàn 9 phải bằng mọi giá quyết xung phong nhào lên chiếm đỉnh nầy; nhưng gần 1 tuần lễ sau, với nhiều cuộc chiến đấu ác liệt bằng phi pháo, lưỡi lê, và lựu đạn, đã tiêu diệt toàn bộ địch trên đỉnh đồi. Các đơn vị chiếm được những đỉnh cao xung quanh 1062 nhưng với sự trả giá rất đắt! 3 sĩ quan của Đại úy Trọng bị hy sinh, Đại úy Tửu bị thương, các đại đội khác đều bị hao hơn phân nửa quân số!!!
Sau khi ra khỏi Hà Nha hơn 1 tháng Đại đội 15 của Đại úy Lộc và Thiếu tá Phú nhập vùng, biệt phái cho TĐ9ND. Riêng ĐĐ11 nghĩ được 2 tuần thì được lệnh di chuyển ra BCH/LĐ1ND, và tại đó được trực thăng Chinook bốc vào mục tiêu B tăng cường cho Thiếu tá Phú để thanh toán mục tiêu D1 và D2 nhằm giải tỏa áp lực cho TĐ9 đang ở 1062.
Thiếu tá Phú (Phú «Đen», K16TĐ) là một sĩ quan rất can trường và tháo vát, anh là một trong những con gà giỏi của Tướng Lưỡng khi ông còn làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND, Phú xử dụng tối đa các phi tuần A37 (mà các ĐĐT rất sợ) vì độ chính xác thấp và các phi công ưa đánh từng chùm cho xong rồi rút nhanh sợ phòng không hoặc các súng địch ở những cao độ chung quanh. Nhưng Thiếu tá Phú vẫn quyết định dùng không quân tối đa, trong lúc họp, Đại úy Thế đề nghị đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách đi vòng qua thung lũng thay vì đi theo yên ngựa (do kinh nghiệm lần trước tấn công mục tiêu B và C).
Thiếu tá Phú theo kế hoạch nầy lệnh cho ĐĐ11 và ĐĐ15 xuyên qua thông thủy tiến sâu về phía Bắc, rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, địch chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là ĐĐ15 thanh toán xong D1 và ĐĐ11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, kết quả: - ĐĐ15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên và một số súng cá nhân; - ĐĐ12 tịch thu 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó địch rút chạy vì chịu không nổi phi pháo của ta ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy địch thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối; rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ chỉ huy của Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha. Trung tá Nguyễn Đình Ngọc TĐT K19ĐL, lúc đó đang đi phép vì ông thân sinh vừa qua đời. Thiếu tá Trần Công Hạnh K20ĐL, xử lý TĐT, cùng Đại úy Nguyễn Hiền Triết, trưởng ban 3, đóng ở làng Hà Nha 1, còn Thiếu tá TĐP Nguyễn Văn Phương, chỉ huy 2 Đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây!
Sáng hôm sau, Phương cho các đại đội tung người ra lục soát, cánh Chuẩn úy Tạ Thái Bảo dẫn trung đội tiến tới chiếm cái chốt mà địch đã đặt thượng liên bắn vào TĐ2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng «Ầm» tiếp theo là bụi cát bay mù nơi chốt anh vừa chiếm; Chuẩn úy Bảo bị hy sinh bởi quả đạn 75 ly hoặc sơn pháo bắn trực xạ từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức.
Địch chiếm lại chốt đó và lại đặt súng đại liên bắn vào quân ta. Phương phái Thiếu úy Tăng Thành Lân chỉ huy trung đội đánh cái chốt trên cái đồi nhỏ; Lân gọi pháo binh dập nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy, anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo «cấm chỉ» ngay đồi «máu» và Lân cũng bị hy sinh giống như Chuẩn úy Bảo!!!
Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai thèm đến vùng tử địa đó nữa!
Vài hôm sau, khi Tiểu đoàn được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ TĐ2ND, địch đành phải rút chạy bỏ lại hằng chục vũ khí đủ loại, nhưng ta cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung úy Thịnh, Thiếu úy Trần Đại Thanh, và Lê Hải Bằng (Thành và Bằng là 2 bạn cùng khóa 26 VBĐL)!!! Sau đó Hạnh lên nắm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 Trần Tấn Hòa về làm Tiểu đoàn phó.
Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Lô làm Tiểu đoàn trưởng, K18ĐL và Thiếu tá TĐT Quý, từ TĐ1 trở về, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Dù dùng thuật «dương Đông kích Tây» cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngủ, rút chạy, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, phá hủy kho tàng hầu cần và bị tiêu diệt toàn bộ ba tiểu đoàn. Đại úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng Quảng Trị, đã bị thương ở trận nầy! Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc!
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù lên 1062 thay cho TĐ9ND rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Tình hình Nam đèo Hải Vân được hoàn toàn yên tỉnh, không có một tiếng pháo kích nào của địch, và kéo dài như vậy cho đến khi Sư Đoàn Nhảy Dù được lệnh rút toàn bộ về Nam (kể cả Lữ đoàn 2 ở phía Bắc đèo Hải Vân).
***
Qua tuyệt phẩm 1062 của Sư Đoàn Dù, hẳn Sư Trưởng Thép 304 Trương Công Phê đã hài lòng về nhận định rất đúng của mình. Sư Trưởng Phê dặn dò Sông Hồng trước khi lên chạm tuyến: «Sư Dù là Sư mạnh của ngụy. Phải cẩn thận!»
Đúng vậy, thưa Sư Trưởng Thép 304, móng vuốt của Mãnh Sư Việt Nam Cộng Hòa đã bẻ gãy Thép của ông rồi.
***
Ông Đội Đèn báo cáo số tù binh của 304 về Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn I. Mấy hôm sau, chúng tôi cho tù binh lên xe GMC, 40 anh gần đầy xe, thì có một ông Mỹ thuộc Tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, ông Paul V. Tracy, chạy tới hỏi: Có thật là tù binh thuộc 304 không?
Chúng tôi chưa tin như vậy (ngây thơ mà gian trá).
- Đấy, họ đang trên xe, chúng tôi giải giao về Phòng 2/Quân Đoàn I, ông lại phối hợp với QĐ và tìm xem họ có đúng thuộc 304 không? Nếu đúng, tôi nghĩ ông phải bồi thường danh dự cho chúng tôi vì mấy ông nghĩ là nói dối chăng? (thủ đoạn của Mỹ).
Ngay chiều hôm đó, Paul V. Tracy quay lại nói: Đúng rồi, họ thuộc 304, đây để chuộc lỗi hoài nghi của chúng tôi, xin tặng cho đơn vị bắt được tù binh, cứ mỗi tù binh là 1000$ (hay 2000$ gì đó lâu quá rồi không nhớ rõ).
Chúng tôi báo cáo với Tướng Lưỡng chuyện này và Tướng Lưỡng nói: Nhờ ông Đội Đèn trao cho Đào Thiện Tuyển Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù đang dưỡng quân tại Đà Nẵng.
***
Trận chiến tại Thượng Đức với cái nhìn đa diện, thật tàn bạo, nhưng cũng đầy tình người. Một lần, sau một đêm dài không chiếm lại được ngọn đồi, trời mờ sáng,Việt cộng bỏ chạy. Nhưng không kịp nữa, phản lực cơ xuất hiện, rồi pháo binh nã tới, địch quân hoảng sợ chạy tán loạn, chạy cả về phòng tuyến của quân ta, ở phía Đông quận Thượng Đức. Một số trên tay không vũ khí, chỉ còn lại cái quần đùi duy nhất mặc trên người, được các chiến sĩ ta tha chết cho chạy ngược trở lại. Nhưng từ phía xa xa, ở lưng chừng một sườn núi, các chiến sĩ Mũ Đỏ nhìn thấy các chiến hữu của mình trong một Tiểu đoàn khác, đóng tiền đồn, chiến đấu hết đạn, đang dùng báng súng đánh lại Vc, cười vang cả núi rừng, trước khi đưa tay cho địch trói, và để chúng lột bộ đồ rằn ri vứt đi. Việt cộng gom tù binh, hai tay bị trói thúc ké, cởi trần, mặc quần “xà lỏn”, bắt chạy theo chúng. Nhưng rồi những quả đại bác không biết từ đâu nã tới. Những xác người tung lên. Không biết “ai là thù, ai là bạn” nữa!
Người Bác sĩ Quân Y khi té xuống một hố chiến đấu, trên đỉnh 1062, một vòi máu phọt trúng người ông, sau đó là những tiếng rên la đau đớn. Ông biết người thương binh Vc sắp chết, nhưng vẫn lần mò “túi đồ nghề“ để khâu lại chỗ vòi máu chảy. Những lúc pháo của địch ngưng trong chốc lát, ông cùng Trung đội Quân Y kéo những xác người trong giao thông hào, “lớp ta, lớp địch” chồng chất lên nhau, và ở trên mặt đồi, đào những hố lớn rồi chôn tập thể.
Những người lính Nhảy Dù từ những đỉnh cao, những triền núi, trong lúc tạm yên tiếng súng, thường nhìn về phía sông Vu Gia với rặng cây rừng rũ xuống. Những buổi sáng cuối năm sương mù che kín giòng nước, buổi chiều khi hoàng hôn xuống, nắng quái loang loáng trên mặt sông, thật kỳ ảo, cô liêu và tịch mịch. Miền Trung với những con sông tên thật đẹp. Sông Hương tại Huế, sông Bồ nhìn ra Phá Tam Giang, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vu Gia…Tên mỗi con sông đều gắn liền với những thời điểm, những địa danh, vết tích của chiến tranh, và của hận thù: Tết Mậu Thân, Dẫy Phố Buồn Hiu, Đại Lộ Kinh Hoàng, Cổ Thành Quảng Trị.
Trận chiến tại Thượng Đức cũng đã làm rung chuyển, bàng hoàng bọn đầu sỏ chỉ đạo chiến tranh Cộng sản Hà Nội. 1 Lữ đoàn Nhảy Dù tăng cường đã chiến đấu ngang ngửa với gần 3 Sư đoàn quân chính quy Bắc Việt trong nhiều tuần lễ. Những thiệt hại của hai bên thật là khủng khiếp. Một người lính Việt Nam Cộng Hòa được đổi với 9 hoặc 10 lính cộng sản Bắc Việt. Và số thương vong các đơn vị của ta trong trận này, lên đến trên 50 phần trăm quân số tham chiến!
Mũ Đỏ Trương-Dưỡng, Đội Đèn (Trung Sĩ Nhất Nguyễn-Văn-Đèn) và Phạm Huấn đồng tác giả.
generalhieu.info - Nguyễn Văn Hiếu Library Thư Viện2023 - 2024 - 2025 Sitemap - Sitemap Vietnamwarsummit - Weblinks
Mail:nguyenvanhieulibrary.info;
Images | website template by ARaynorDesign