Quân sử Việt Nam: Anh hùng bạt mạng 11
https://generalhieu.info/military_history/quansuvn_anh-hung-bat-mang11.shtml
http://www.nguyenvanhieulibrary.info/military_history/quansuvn_anh-hung-bat-mang11.shtml
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35
TRẦN THY VÂN
TÁI BẢN LẦN THỨ TƯ
2010
Thương tặng
hiền thê HN Lê Hoa
đã giúp anh hoàn thành Anh Hùng Bạt Mạng
ttv
***
- Bỏ súng xuống, nếu không tao bắn nát óc!
Vị sĩ quan khóa đàn em, 23 Thủ Đức, ngoan ngoãn vừa đút súng vô bao vừa lằm bằm:
- Tình trạng này kéo dài làm sao tôi chỉ huy?
Tôi hạ nòng súng, nhưng vẫn còn trong cơn giận:
- Mình mày khổ hả? Mày không có quyền hành động như vậy, nghe chưa? Dù gì tao và mày đã đụng chạm nhau rồi, tao sẽ xin đổi đi đơn vị khác.
Tôi không rõ giờ phút ấy, Đại úy Đỗ Đức Chiến có biết sự cố đang xảy ra không. Vì đau nhức ông vẫn "tỉnh bơ" rên rỉ, la hét như sấm. Mãi hôm sau, khó khăn lắm lính mới đưa người hùng lên trực thăng về bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế.
Hiện Đỗ Đức Chiến, như anh em biết, đã đeo lon Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng 37 BĐQ. Vì một cánh tay ông bại xuội, "kỷ niệm" Lào, mỗi lần gặp, tôi hay gọi đùa: "Tân Độc Thủ Đại Hiệp", nhại theo tên một film Nhật. Khi Chiến mới làm Tiểu đoàn trưởng, mấy thằng lính ba gai chẳng ngán ông chút nào. Tụi nó nghĩ cái tay gãy đó đánh đau ai, nên nhiều đứa suýt bỏ mạng. Lúc bị kêu lên trình diện, thấy ông cứ nhá nhá cánh tay "bất khiển dụng", thằng nào cũng phớt tỉnh, còn kênh mặt, ý chừng để cho ông tát hay loi tùy. Nhưng Chiến khôn thấy mẹ, "tiền trá hậu triệt", bất thần ông trở bộ rồi dùng cái tay cuồng bạo kia dộng một cú direct, khiến con người ta thiếu điều trẹo cổ, ngã ngửa ra sau. Từ đó, ai cũng ớn lạnh ông thầy chơi thế ăn gian, dương đông kích tây, kiểu Việt Cộng, đánh knock out hết bọn "đệ nhất giang hồ" của Tiểu đoàn 37 BĐQ...
Tôi ngừng đôi phút cho Đại đội cười và lấy bánh kẹo ra ăn tự do, để nghe kể thêm vài câu chuyện. Nhìn chung, thấy anh em vui. Đây cũng là dịp tôi trút tâm sự, chứ lâu nay đa số tân binh chẳng rõ ông Đại đội trưởng này thuộc cái giống gì.
Các anh biết không, qua năm cuộc "du xuân", chỉ cái Tết Kỷ Dậu 1969 là tôi nhớ suốt đời. Lúc đó tôi Trung đội trưởng Trung 3/2 BĐQ do Trung úy Đỗ Đức Chiến Đại đội trưởng. Dĩ nhiên thời ấy ông chưa là Tân Độc Thủ, cánh tay chưa xuội.
Vừa thanh toán bọn Việt Cộng chiếm cứ hãng dệt Sicovina Cẩm Lệ xong, tôi lại nhận lệnh chỉ huy luôn Trung đội 2 của Thiếu úy Nguyễn Hiếm vào giải tỏa Quang Châu, một thôn ở phía tây, thuộc xã Hòa Châu, nối liền với Miếu Bông, xã Hòa Phước quận Hòa Vang, Quảng Nam, cũng bị địch chiếm.
Chẳng hiểu sao Trung úy Đại đội trưởng Đỗ Đức Chiến lại giao tôi và Nguyễn Hiếm đánh Quang Châu? Chắc ông, cũng như Thiếu tá Võ Vàng Tiểu đoàn trưởng 21, vô tình! Dầu vậy, tôi và Hiếm vẫn đau lòng. Các anh biết không, Quang Châu là chánh quán quê nội tôi, quê ngoại Nguyễn Hiếm. Lại nữa, cái tâm điểm cần phải tấn công trước là ngôi nhà xưa bằng gạch, tọa lạc giữa vườn cây ăn trái. Chính nơi đó tôi được sinh ra và hiện đang thờ phượng ông bà, ba mẹ và các anh chị ruột tôi...
Quang Châu nghèo, một dải đất hẹp bao bọc bởi những lũy tre già im bóng, ruộng nương không đủ rộng để cò bay thẳng cánh, nhưng quanh năm tươi mát, êm ả, với tiếng sáo diều vi vu, không một vết thù bom đạn chiến tranh. Quang Châu, một thôn riêng của tộc Trần Bá, gồm bốn phái, gia đình tôi thuộc phái nhất, nổi tiếng ngày xưa môn Vạn Pháp Quy Tông. Ông Cố tôi luyện được nhiều phép, như sang sông bằng nón lá, sái đậu thành binh... đánh nhau với làng Quá Giáng kế bên, do vụ đổi đình. Vì tài đó Cố bị vua Nguyễn giết, được chọn thắt cổ, nhưng Cố điểm nhãn, biến khúc lụa đào thành rồng cỡi bay đi mất dạng. Tương truyền Cố xuôi nam ẩn lánh, cứu giúp chữa bệnh người đời qua khắp xứ. Sau, Cố chết hiển thần, được lập đền thờ ở các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận (1)...
Khi vào sát Quang Châu, tôi cho hai trung đội nằm cặp bờ ruộng phía bắc, dọc theo con hương lộ, đối diện nơi chôn nhau cắt rún của tôi bên kia lũy tre già trước mặt. Tôi cứ phân vân lưỡng tính, đánh hay bất tuân lệnh thượng cấp. Nếu đánh, phải dùng đến M79, lựu đạn M26. thì mục tiêu nát ngay, ngôi nhà sụp đổ, vườn tược cũng hoang tàn. Sự thiệt hại về vật chất còn có thể xây dựng lại, chứ phần tinh thần thì không bao giờ đền đắp được.
Chị tôi, Trần thị Miên, lấy chồng ở Miếu Bông, một thôn kế bên, sợ run lên vì chưa biết đơn vị nào sẽ vào giải tỏa, mà không làm hư hại ngôi làng yêu dấu của chị. Bất ngờ hôm đó, thấy tôi dẫn hai trung đội Biệt Động Quân, xuất phát từ Phong Lệ, đằng đằng sát khí tiến vào, xuyên qua Miếu Bông, lúc đi ngang trước ngõ, trong nhà chị vụt chạy ra, kêu thật to cái tên thuở bé của tôi:
- Cậu Trí!
Vì khẩn cấp, trên đường tới mục tiêu, không tiện ghé thăm, dù chỉ để nói đôi lời chúc tết, mừng tuổi, nhưng khi nghe tiếng chị gọi tôi phải dừng chân, quay lui:
- Chào chị và các cháu năm mới!
Miên, gương mặt thất thần, nói dồn dập:
- Này, báo cậu biết gia đình chị Hai (vợ anh cả tôi) và anh Phó Thừa đã di tản ra đây hết rồi. Những ai còn kẹt trong làng đều là bà con. Nhớ cẩn thận, bảo vệ nhà cửa vườn tược và dân mình, nghe chưa! Việt Cộng không có nhiều đâu!
Việc quân đội mà chị dặn đủ thứ. Tôi nói như nạt chị:
- Vào nhà đi! Để em tùy cơ ứng biến!...
Nhìn khu vườn đầy hoa dại, đã một thời thơ ấu cùng hai chị Thông, Miên chơi đùa, chạy nhảy tung tăng, tôi ngậm ngùi. Dĩ nhiên, tôi không thể để mảnh đất thiêng liêng ấy bị xao động, phai mờ hình ảnh, dư âm dịu hiền của mẹ tôi còn phảng phất đâu đây, từng hằn sâu trong tâm khảm dù 25 năm trước mẹ đã ra đi không bao giờ trở lại.
Anh em Biệt Động tham chiến hiểu chuyện cũng cảm thấy mỉa mai chua xót, không nỡ chĩa súng vào nơi sinh thành của người đang trực tiếp chỉ huy mình. Chỉ riêng tôi nhận biết khu vườn bỗng hiện ra bao hình ảnh thân yêu lạ lùng, khiến bất cứ ai đối diện cũng phải run sợ. Địch quân thì đang thúc thủ bên những bờ tre, gốc mít, vách nhà.
Lần đầu tiên lúc chiến đấu tôi lại cố ý chần chờ, ngầm tha mạng sống, để kẻ thù còn có cơ hội rút lui. Thật tình tôi không muốn giết chúng nơi đây. Sá gì năm ba tên giặc cỏ, một lũ đói phương Bắc vào kiếm ăn, mà Quang Châu, một cô thôn đầy huyền sử phải điêu tàn. Tôi e ngại khi nổ súng tấn tới, vũ lực ít ra cũng làm trầy trụa những thảm cỏ non xanh nhiều hoa với bướm muôn đời của chị tôi, Trần thị Thông, đã chết năm lên 16.
Tôi bảo hai trung đội lúc tấn công hãy tác xạ cao khỏi nóc nhà, trừ phi thấy địch, và cấm đụng chạm tới tài sản dân làng. Ai bất tuân sẽ bị bắn bỏ tại chỗ. Thiếu úy Hiếm luôn nhắc lại lệnh đó nhiều lần để mọi người tuyệt đối thi hành. Cuối cùng còn 2 tên Cộng quân không chịu chạy, cứ bám sát sau hè nhà, buộc lòng tôi phải ra lệnh thanh toán nốt, hỏa lực đã làm lũng vách tường, sức ép thổi rơi tấm ảnh thân phụ tôi trên bàn thờ xuống đất. Chỉ có vậy mà Miên vẫn không hài lòng, trách mãi tôi làm xơ xác khu vườn vốn rất yên tịnh từ lâu...
Nay Tết nữa là sáu cái trong bảy tuổi lính của tôi đang cùng các anh trên đường lao vào trận chiến Sa Huỳnh. Giờ phút này chúng ta chưa rõ tình hình địch nơi đó ra sao, nhưng chắc chắn không hơn ở Quảng Trị. Trước mặt tôi lớp người cũ chẳng còn bao nhiêu, đa số mới và có thể là những anh hùng trong tương lai dù chưa gian khổ lắm. Với tư cách người chỉ huy đơn vị, tôi thông cảm các anh đã mất một cơ hội gặp mặt vợ con và thân bằng quyến thuộc sau một năm bốn ngày xa cách. Nhưng, chớ quên, chỉ tôi thông cảm, chứ kẻ thù thì lúc nào cũng muốn tận diệt chúng ta. Một vấn đề nữa, hẳn ai cũng biết là vì tình hình khẩn trương, áp lực địch từ Sa Huỳnh, Liên đoàn 1 Biệt Động Quân phải đến, chẳng ai trù yểm Đại đội này.
Thôi, chuyện còn dài. Đầu Xuân chúng ta tâm sự ngần đó để hiểu nhau. Quân đội không đủ ngôn ngữ, chỉ lấy hành động diễn đạt, giải quyết mọi vấn đề. Hãy vui vẻ mà chiến đấu, là tự cứu mình trước hết. Tất cả lên đường!
Anh em vừa đứng dậy, tôi ra lệnh dàn đội hình:
- Đại đội tiếp tục di chuyển bên trái quốc lộ, nhắm hướng nam, Đức Phổ. Để tránh phục kích, Trung đội 1 hàng ngang đi đầu, Trung đội 2 và 3 hàng dọc, giữ mặt đông, cả ba như chữ "L", đáy trước. Toán Thám Báo bên phải BCH, quan sát phía tây. Có thể chạm địch, sẵn sàng nổ súng!
(Kỳ 5)
QUÁN HỒNG Cà Phê Máu
Phút chốc, Đại đội đã rời khỏi khu vườn và lúc ẩn lúc hiện băng qua từng con xóm đìu hiu quá lạnh lùng. Tiếng súng đâu phía trước nghe càng rõ và dồn dập hơn. Tôi nhớ khi cho lệnh di chuyển, Thiếu tá Quách Thưởng có dặn cẩn thận tại Quán Hồng mà vì bực mình tôi quên hỏi Quán Hồng là địa danh hay quán cà phê. Nếu địa danh, sao không thấy ghi trên bản đồ? Chắc quán, nên tên đẹp, như Diễm, Thủy Tiên, Thạch Thảo... nổi tiếng Đà Nẵng. Họa hoằn mới có kẻ lập dị, đặt tên hiệu tệ mạt: Nghèo, Rách ở xóm Chuối, nghe mà ớn, chẳng ham chút nào. Nhưng dù nơi đâu, mỹ miều hay xấu xí, các chốn ăn chơi ấy có các cô chiêu đãi viên càng đẹp càng xảy ra lắm chuyện tranh giành, bắn phá lẫn nhau. Hẳn Thưởng ngại Đại đội Biệt Động Quân này gặp dịp đi ngang qua, ghé quậy chơi. Ông đã ghép tôi vào thành phần ngũ quỉ, gồm Trần văn Quy, Nguyễn Hiếm, Trần Thương Quảng và Dương Xuân, là một bọn đánh giặc khỏi chê mà phá phách lung tung, mãi chọc thiên hạ chửi cũng hết sẩy. Năm ông quan cô hồn này thường xúi lính đánh bậy Quân Cảnh hống hách, bắt du đãng ném xuống cầu Trịnh Minh Thế cho dòng sông Hàn cuốn đi. Nhưng đó là ba chuyện ngày xưa, vừa ra trường, còn mang lon thiếu úy, thích gắn cái bông mai vàng bằng đồng trên nắp túi áo, lốc chốc, chứ ngày nay ai cũng lớn rồi, nghiêm túc để chỉ huy.
Quán Hồng! Nghe êm và đẹp!
Tôi đang miên man suy nghĩ, cố tìm hiểu Quán Hồng là cái giống gì, thì Thanh lướt tới đưa ống liên hợp máy PRC25 liên lạc nội bộ để tôi nghe Thiếu úy Cường báo cáo:
- Trình Đại Bàng, cho lệnh Trung đội tôi hàng ngang chạy băng nghĩa địa dài 200 thước. Có tiếng súng trung liên và B40 nổ gần.
- Việc gì phải chạy! Chỉ đi thưa và nhanh thôi, nương theo các gò mả. Nếu trong lũy tre bắn ra, hãy tắp ngay.
Dứt lời tôi vọt lên điều động đơn vị vượt qua khoảng trống. Tất cả vào an toàn, bao quanh một con xóm. Tôi quan sát phía trước, còn một cánh đồng ruộng nữa khá dài và rộng. Kế quốc lộ, cách tôi độ 300 thước có cái đồn lớn, xây bằng bao cát, hệ thống phòng thủ coi bộ kiên cố. Tôi xem ống dòm thấy ngoài giao thông hào rào nhiều lớp kẽm gai chằng chịt. Bên hướng đông, sau lưng nó không xa, có tiếng máy thiết giáp gầm gừ, chốc chốc nổi lên bắn Đại liên 50, M79 vào đồn, nhưng trong đó im lìm, không ai phản ứng, như đã chết hết đâu rồi. Thấy sự kiện lạ lùng, lại ngại bị chơi lầm, bọn lính mũ đen tạt nòng súng qua phải quạt luôn Biệt Động Quân không chừng, nên tôi vội gọi máy hỏi Thiếu tá Quách Thưởng:
- Trùng Dương! Cho biết gấp bầy cua sắt nào lại đang tấn công đồn Địa Phương Quân tại tọa đô. XY... trước mặt tôi?
Thưởng hét to:
- Cẩn thận, Việt Quốc! Hãy cẩn thận tại đồn Quán Hồng, Việt Cộng đã chiếm đêm hôm qua. Bọn cua sắt là Chi đoàn 17 M113 tên Thiên Mã, mở tần số 25.25 liên lạc Đại úy Việt, Chi đoàn trưởng, để tránh ngộ nhận!
- Sao lúc sáng Trùng Dương không nói?
- Cố gắng đi lẹ đi! Hẹn gặp tại Đức Phổ tối nay.
Nghe Quách Thưởng nói tôi bật ngửa. Thì ra Quán Hồng là tên một đồn lính, chẳng phải quán cà phê cà pháo gì hết. Tôi chửi thầm:
- Mẹ, đồn bót mà đặt tên cho đẹp! Hèn gì mấy thằng Vẹm nhào vào mần sạch "cà phê" cũng đáng. Nghĩ nhột dạ tôi nổi cười to khiến thằng Hiệp truyền tin ngồi kế nhướng mắt hỏi:
- Tin vui, hả Trung úy?
- Đâu có! Tao cười cái thằng cha nào đặt tên đồn lính này là Quán Hồng. Vậy mà hồi sáng giờ tao lẩm cẩm tưởng quán cà phê, nên định bụng lát nữa cho tụi mày ghé uống đứa vài ly chơi, rồi đi, ai dè thứ dữ ở trổng, Việt Cộng không hà! Mày lấy máy xơ cua mở tần số 25.25 để tao liên lạc ông bạn Thiết giáp gấp.
Trong lúc chờ Hiệp, tôi gọi các trung đội:
- Mười, Hai Mươi, Ba Mươi! Hãy đề phòng, địch đã chiếm đồn lính trước mặt, và cẩn thận bọn cua sắt có thể kẹp nhầm. Tất cả tiến tới thêm, bao quanh đầu xóm, bố trí phòng thủ cập theo các bờ tre, đối diện Quán Hồng.
Các thẩm quyền vừa đáp nhận, Hiệp bắt được tần số nội bô. Thiết giáp, giọng Đại úy Việt đang điều quân phát nghe oang oang. Tôi bóp ống liên hợp xen vô:
- Thiên Mã, Thiên Mã, đây Việt Quốc!
- Thiên Mã nghe... Việt Quốc nào?
- Việt Quốc Thiên Nga Mũ Nâu!
Người hùng Tchépone mừng reo lên:
- Thiên Nga! Tao đã nhận ra mày. Bonjour, Sésamou! Tao tưởng mày đã chết ngoài La Vang Quảng Trị rồi! Hay mày là ma, hiện về ở đâu đó?
Tính Việt vui vẻ, thường gọi tôi Sésamou tên con sông bên Lào. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971, Chi đoàn Thiết giáp của Việt tăng phái Sư đoàn 1 BB đánh Tchépone. Tôi Đại đội phó Đại đội 2 Tiểu đoàn 21 Biệt Động, cùng đơn vị nhảy xuống đường mòn Hồ Chí Minh, tại mốc số DC16, đầu sông Sésamou, cực bắc Tchépone, Lào. Mỗi lần gặp, tụi này gọi nhau bằng hai địa danh ấy, kỷ niệm cuộc hành quân bão lửa mới năm nào.
Tôi trả lời Việt:
- Sức mấy chết, mậy! Tao đang ở phía bắc Quán Hồng 200 thước, coi chừng tác xạ nhầm Thiên Thần Mũ Nâu!
- Việt Quốc lưu ý Quán Hồng, tụi bê bối trong đó. Tao vừa bi. B40 nướng một con, hãy giúp tao một tay!...
- Giúp cái gì? Tao phải vọt gấp Đức Phổ! Sao không dộng 106ly vào họng nó?
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35
generalhieu.info - Nguyễn Văn Hiếu Library Thư Viện 2021 - 2022 - 2023 Sitemap - Sitemap Vietnamwarsummit - Weblinks
Mail:generalhieu.info;
Images | website template by ARaynorDesign